Điệu nhảy Cham Dance là nét độc đáo của Phật giáo Tây Tạng, còn được gọi là Vũ điệu thần linh. Nó là một màn trình diễn đầy màu sắc và ấn tượng, đồng thời là vũ điệu nhiều ý nghĩa. Khác với các điệu múa thông thường, múa Cham mang ý nghĩa tôn giáo nên chỉ có các nhà sư, Lạt ma mới được biểu diễn. Đó là một hình thức thiền cho cả vũ công và khán giả.
Đối với các nhà sư, biểu diễn múa Cham là một hình thức cúng dường. Trong buổi khiêu vũ, các nhà sư đóng giả các vị thần và những người bảo vệ. Các nhà sư đệm theo điệu nhảy với âm nhạc được chơi trên các nhạc cụ truyền thống. Họ chơi trống cầm tay, chũm chọe, trống lớn, kèn thổi, kèn trumpet, kèn dài. Họ tụng kinh theo nhịp trống và niệm chú.
Đối với du khách nước ngoài, trang phục cầu kỳ và trang trí mặt nạ là điểm thu hút chính của vũ hội. Bởi vì các thần hộ mệnh Tây Tạng xuất hiện trong hình dạng “phẫn nộ“, một số du khách đầu tiên đến Tây Tạng thậm chí còn gọi nó là “vũ điệu ma quỷ“.
Nguồn gốc của vũ điệu Cham
Nguồn gốc của múa Cham không được biết rõ ràng. Nó là một trong những cội nguồn với nghệ thuật huyền bí Mật tông, Cham được cho là có nguồn gốc đầu tiên từ dãy Himalaya.
Theo truyền thuyết, truyền thống khiêu vũ Cham được bắt đầu bởi Guru Padmasambhava vào cuối năm thứ 8 CN. Khi vua Tây Tạng, Trishong Detsen gọi Guru Padmasambhava để xua đuổi tà ma để xây dựng tu viện Samye. Guru tôn kính đã thực hiện nghi lễ khiêu vũ. Nghi thức tương tự theo thời gian đã trở thành Vũ điệu Cham công phu, một môn thực hành đặc trưng cho tông phái của Phật giáo Đại thừa.
Ý nghĩa của vũ điệu Cham
Múa Cham xuất hiện như một hình thức giảng dạy, khi các nhà sư có thể kể những câu chuyện tôn giáo cho khán giả. Trong những ngày đầu Phật giáo phát triển, phần lớn dân chúng không biết chữ và việc in ấn rất tốn kém. Đó là lý do tại sao khiêu vũ trở thành một hình thức quan trọng không chỉ đơn thuần là giải trí, mà còn là một cách truyền bá giáo lý Phật giáo và ban phước lành.
Các nhà sư biểu diễn vũ điệu Cham trong các lễ hội tôn giáo. Những lễ hội này thu hút mọi người từ cả những vùng du mục xa xôi. Một trong những lễ hội nổi tiếng nhất là Saga Dawa. Ngày này tưởng nhớ sự Đản sinh, Thành đạo và Nhập Niết bàn của Đức Phật. Đó là ngày tốt lành nhất trong năm. Một điệu múa Cham được biểu diễn vào ngày hôm đó để tưởng nhớ đến Đức Phật và Pháp.
Một chức năng quan trọng khác của Múa Cham là cầu mong một thế giới hòa bình, bảo vệ muôn loài khỏi ma quỷ. Đó là sự cúng dường cho Bồ tát để loại bỏ mọi đau khổ và lo lắng, và mang lại niềm vui và hạnh phúc.
Những loại hình múa Cham Tây Tạng khác nhau
Có một số chủ đề của Múa Cham, một số đặc trưng cho các trường phái khác nhau của Phật giáo Tây Tạng.
Những vị thần bảo vệ “phẫn nộ”
Các nhân vật trung tâm của điệu múa là những vị thần Phật bảo vệ phẫn nộ, chẳng hạn như Mahakala, Yama, Hayagriva, Palden Lhamo, Begtse, và những người khác. Đối với du khách, những nhân vật này gây ấn tượng mạnh nhất bởi những chiếc mặt nạ cầu kỳ và trang phục sặc sỡ. Bất chấp vẻ ngoài lực lượng của họ, những người bảo vệ này chỉ khiến những linh hồn xấu xa sợ hãi. Họ là những vị Hộ Pháp cần thiết cho Phật giáo Tây Tạng.
Những bộ xương nhảy
Một đặc điểm chung khác của Múa Cham là một nhà sư đeo mặt nạ đầu lâu và trang phục trang trí hình bộ xương. Người Tây Tạng không bị đe dọa bởi cái chết, vì họ tin vào luân hồi và coi cái chết là bước cần thiết cho một cuộc sống mới và cuối cùng là giác ngộ.
Có nhiều loại nhân vật bộ xương khác nhau:
- Ging thường mặc trang phục bộ xương đơn giản và đeo mặt nạ hình đầu lâu.
- Gangre đeo một chiếc mặt nạ đầu lâu được trang trí.
Họ thường biểu diễn khiêu vũ theo cặp. Các vũ công bộ xương Citipati biểu diễn theo cặp nam – nữ. Mặt nạ đầu lâu có 5 đầu lâu nhỏ hơn trên đỉnh. Citipati là một trong những hình thức của Mahakala. Sự hợp nhất của hai vị thần tượng trưng cho vũ điệu bất diệt của cái chết và một nhận thức hoàn hảo.
Citipati hay Shmashana Adhipati là một vị thần bảo hộ hay Hộ pháp trong Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Kim cương thừa trên dãy Himalaya.
Điệu nhảy Guru
Padma Sambhava (Guru Rinpoche trong tiếng Tây Tạng) là một đạo sư Ấn Độ thế kỷ thứ 8 và là người sáng lập Nyingmapa. Theo người Tây Tạng, Padma Sambhava là người bắt đầu truyền thống Múa Cham. Đó là lý do tại sao múa Cham thường miêu tả cảnh cuộc đời của Padmasambhava.
Điệu múa Guru được thực hiện vào ngày 10 tháng 6 theo lịch Tây Tạng để kỷ niệm ngày ngài giác ngộ. Các nhà sư biểu diễn vũ điệu trong mặt nạ và trang phục của 8 biểu hiện của Guru Rinpoche. Trong tay, họ cầm nhiều dụng cụ đặc biệt khác nhau mà Guru Rinpoche đã sử dụng.
Điệu nhảy thần linh
Chủ đề trung tâm là lời cầu nguyện với Phật để chế phục ma quỷ. Điệu múa cho thấy chúng sinh đang chịu đựng những chướng ngại xấu, những ảo tưởng và những rắc rối.
Điệu nhảy trên bầu trời – Điệu nhảy nghi lễ và biến đổi không gian vũ trụ
Thực hiện trong một mạn đà la, với một nhà sư tụng kinh ở trung tâm. Những người biểu diễn ca ngợi công đức của tất cả Phật và Bồ tát trong mười phương bằng ca hát và nhảy múa.
Padmasambhava, vị thiền sư vĩ đại, một người có tri thức, đã khuất phục những con quỷ trong khu vực Samye bằng cách thực hiện một điệu nhảy nghi lễ. Nó dựa vào mandala vĩ đại với hành động. Bằng cách làm đó, vị thiền sư đã làm dịu sự ác độc của các vị thần và ác quỷ. Do đó thiền sư ràng buộc chúng mạnh mẽ bằng cách tách mặt đất ra và bổ sung cho nó hiệu quả và với nghi lễ trục xuất, sợi chỉ và vũ khí huyền diệu. Điệu nhảy gắn liền với cội nguồn của Mật tông và có rất nhiều quyền năng.
Xem thêm: Tu viện Samye – Địa điểm Phật giáo đầu tiên Tây Tạng.
Người Tây Tạng coi điệu múa này là nguyên mẫu của Cham. Nó cũng phản ánh bản chất của vũ điệu Mật tông Tây Tạng liên quan đến không gian nghi lễ: tạo ra một cõi thanh tịnh cho một ngôi đền, một bảo tháp hay một mạn đà la sẽ được xây dựng trên đó.
Hành động chuẩn bị của điệu nhảy nghi lễ này khởi đầu cho cái mà chúng ta có thể gọi là sự tạo dựng địa điểm tạm thời về mặt tái tạo vũ trụ. Màn trình diễn của Cham tự nó trở thành một “mandala vĩ đại của hành động“.
Điệu múa hươu
Điệu múa hươu / nai, được gọi là Milarepa cham, bắt nguồn từ truyền thuyết về nhà huyền bí Phật giáo thế kỷ 11 Jetsun Milarepa, người đã thuần hóa một con chó để bảo vệ một con hươu đã vào hang động của mình. Điệu nhảy được cho là bắt nguồn từ Tser Gontham, một tu viện Kagyu bên sông Lhasa ở Tây Tạng.
Điệu múa hươu có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào màn trình diễn. Nếu nó được biểu diễn bởi một nhóm, các vũ công biểu thị và đại diện cho “một trong nhiều vị thần bảo vệ” và chúc mừng năm mới của các thế lực tiêu cực. Nhưng khi nó được biểu diễn bởi một vũ công, anh ta đại diện cho con nai đã được Milarepa thuần hóa và giải cứu.
Vũ điệu Mũ đen
Điệu múa mũ đen, hay zhana nga cham, gắn liền với truyền thuyết về vị vua tàn nhẫn của Tây Tạng, Langdarma, người đã phá hủy nhiều tu viện và hành quyết các nữ tu và nhà sư Phật giáo. Người ta tin rằng một nhà sư Phật giáo tên là Lhalung Pelgyi Dorje đã thực hiện một màn tắm rửa trước mặt nhà vua trước khi dùng một mũi tên tấn công ông.
Những người biểu diễn mặc một chiếc áo choàng được gọi là phod-ka, và một chiếc tạp dề dài màu đen có thêu ‘viền đầu lâu’. Trong bài tiểu luận ‘Một vũ điệu nghi lễ đội mũ đen‘, Cathy Cantwell trích dẫn lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm, Ngawang Lobsang Gyatso, người đã nói rằng điệu múa ‘bắt nguồn từ Phật giáo Ấn Độ’.
Nó có liên hệ với nguồn gốc của Mật tông, và hơn thế nữa, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập Phật giáo ở Tây Tạng: Guru Padma biểu diễn điệu múa để chuẩn bị mặt bằng tại bSam-yas [Samye] cho tu viện Tây Tạng đầu tiên.
Ông già râu trắng ở Mông Cổ
Điệu múa của ông già râu trắng (The Old White Man from Mongolia), Tsagan Evgen , có lẽ là một trong những bổ sung gần đây nhất trong lịch sử 800 năm tuổi của các điệu múa Tây Tạng. Đây là điệu nhảy duy nhất mà người biểu diễn được phép nói, và người ta tin rằng điệu múa bắt nguồn từ một giấc mơ mà Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, Thubten Gyatso, đã có khi ông chạy trốn từ Tây Tạng đến Mông Cổ vào năm 1904. Trong buổi biểu diễn, vũ công mặc một chiếc áo choàng trắng và cầm một cây gậy trong tay.
Gar Cham
Gar có lẽ là một trong số ít điệu múa được thực hiện bí mật bởi các Lạt ma. Mặc dù nó là một loại cham dance, nhưng nó không phải để công chúng xem. Điệu nhảy này so với các điệu nhảy khác, yên tĩnh hơn và chủ yếu bao gồm các chuyển động của tay, trong khi các điệu nhảy khác lại “phẫn nộ” và tràn đầy năng lượng hơn, tập trung nhiều hơn vào động tác chân. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm, khi nói về điệu nhảy đã nói rằng “khi bàn tay cử động chủ yếu, nó được gọi là Gar, và khi chủ yếu di chuyển bàn chân, nó được gọi là chams”.
Mô tả cuộc tranh luận Phật giáo ở Tu viện Kumbum
Mỗi năm một lần, bạn có thể xem múa Cham mô tả cuộc tranh luận của Hội đồng Lhasa giữa Moheyan và Kamalasila. Điệu múa kể về câu chuyện ám sát vị vua tàn ác chống Phật giáo Tây Tạng Langdarma. Nó tượng trưng cho sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác.
Các nhà sư của Kumbum biểu diễn điệu nhảy vào đêm trước Tết Tây Tạng – Losar.
Xem thêm: Tu viện Kumbum Tây Tạng.
Danh sách các điệu múa Chăm do các nhà sư biểu diễn
- Múa trống nón đen (Zhana Nga Cham)
- Điệu múa của các vị thần kinh hoàng (Tung Ngam Cham)
- Vũ điệu Chiến tranh Phẫn nộ (Ging Tsholing Cham)
- Điệu múa Tám biểu hiện của Guru Rinpoche (Guru Tshengye) (2)
- Vũ điệu của mười sáu phối trí trí tuệ (Rigma Chudrug)
- Điệu múa của triều đình (Boe Cham)
- Múa Tứ quân (Sha Zam Cham)
- Three Ging Dances của Pema Lingpa – múa cầm gậy (Jug Ging), múa cầm kiếm (Dri Ging) và múa cầm trống (Nga Ging), được thực hiện theo trình tự.
- Vũ điệu kho báu của Pema Lingpa (Peling Tercham hay tshangmai ging cham)
- Vũ điệu của Stag và chó săn (Shawo Shachi Cham)
- Vũ điệu guitar (Dranyen Cham)
- Điệu múa của Quý tộc và Quý bà (Pholay Molay)
- Múa trống Drametse (Drametse Ngacham)
- Vũ điệu của các vị chúa tể của các khu hỏa táng (Durthroe Dagmo Chezi Cham thường được gọi là Durdag Cham hoặc chỉ Durdag)
- Dance of the Judgement of the Dead (Raksha Mangcham)
- Vũ điệu anh hùng (Pa Cham)
- Múa tôn giáo (Choe zhey)
Xem điệu nhảy Cham Dance ở đâu?
Điệu múa Tsurphu Cham vào ngày 10 tháng 4 Âm lịch Tây Tạng (Saga Dawa)
Lễ hội khiêu vũ Cham Tsurphu kỷ niệm nhà sư Ấn Độ lỗi lạc, Padmasambhava, người được Vua Tây Tạng mời đến giảng dạy Phật giáo ở Tây Tạng.
Thời gian: ngày 9 tháng 6 năm 2022.
Tu viện Drigung Til
Trong tu viện này, có một vũ điệu Cham trong 2-3 ngày từ ngày 25 của tháng 4 âm lịch Tây Tạng.
Thời gian: ngày 23 tháng 6 năm 2022.
Vũ điệu Cham của tu viện Samye
Theo truyền thuyết, truyền thống khiêu vũ của người Cham được bắt đầu bởi Guru Padmasambhava vào cuối năm thứ 8 CN. Khi vua Tây Tạng, Trishong Detsen gọi Guru Padmasambhava để xua đuổi tà ma không cho phép xây dựng tu viện Samye, Guru tôn kính đã thực hiện nghi lễ khiêu vũ. Nghi thức tương tự theo thời gian đã trở thành Vũ điệu Cham công phu, một môn thực hành đặc trưng cho tông phái của Phật giáo Đại thừa.
Bắt đầu từ ngày 15 của tháng 5 Tây Lịch và kéo dài trong 3 ngày.
Thời gian: ngày 13 tháng 7 năm 2022.
Tu viện Tashilunpo
Đây là một trong những tu viện Gelugpa lớn nhất của Tây Tạng. Lễ hội kéo dài 3 ngày và mỗi ngày các bức chân dung khác nhau của Đức Phật được trưng bày. Các nhà sư cũng biểu diễn các điệu múa Cham trong tu viện.
Múa Cham vào các ngày 14, 15 và 16 của tháng 5 Tây Lịch.
Thời gian: ngày 12, 13 và 14 tháng 7 năm 2022
Tu viện Sakya
Có một điệu múa Cham vào ngày 29 của tháng 11 Tây Tạng.
Thời gian: ngày 31 tháng 1 năm 2022.
Drak Yerpa Cave Hermitage
Lễ kỷ niệm tiếp tục trong 2 hoặc 3 ngày. Lễ kỷ niệm bao gồm các nghi lễ tôn giáo và các điệu múa mặt nạ do các nhà sư thực hiện vào ngày 10 tháng 7 theo Lịch Tây Tạng.
Thời gian: ngày 5 tháng 9 năm 2022.
Tu viện Rongpuk
Đây là tu viện cao nhất trên thế giới và nó nằm ở vùng núi Everest.
Vũ điệu Cham ở Tu viện là một trong những ngày 15 tháng 4 âm lịch và ngày 29 tháng 11 âm lịch theo Lịch Tây Tạng.
Thời gian: ngày 20 tháng 1 năm 2022 và ngày 14 tháng 6 năm 2023.
Múa Cham Chongye
Đây là vào ngày 15 tháng 7 âm lịch theo Lịch Tây Tạng, điệu múa Cham cầu nguyện xua tan thảm họa và sự thịnh vượng cho năm tiếp theo.
Thời gian: ngày 10 tháng 9 năm 2022.
Nguồn bài viết:
- Sanjay Dhar, ‘Hemis Monastery,’ Sahapedia, October 11, 2018, accessed July 15, 2019, https://www.sahapedia.org/hemis-monastery.
- Mireille Helffer, ‘The ‘cham of Padmasambhava in the Monastery of Hemis (Ladakh),’ The World of Music 22, no. 1 (1980): 107–24, accessed July 15, 2019, http://www.jstor.org/stable/43560655.
- Ellen Pearlman, Tibetan Sacred Dance: A Journey into the Religious and Folk Traditions (Rochester: Inner Traditions, 2002), 35.
- Cathy Cantwell, ‘A Black Hat Ritual Dance,’ Digital Himalaya, 1992, accessed July 12, 2019, http://himalaya.socanth.cam.ac.uk/collections/journals/bot/pdf/bot_1992_01_02.pdf.
- Ellen Pearlman, Tibetan Sacred Dance: A Journey into the Religious and Folk Traditions (Rochester: Inner Traditions, 2002).
- Open encyclopedic resource on the arts, cultures and histories of India, https://www.sahapedia.org/